HomePhật học

Tóm tắt cuộc đời Đức Phật

Đức Phật và quan điểm bình đẳng về Đạo đức
Quan điểm bình đẳng về sự tu hành và chứng đạo của Đức Phật
Đức Phật và quan điểm bình đẳng trên phương diện sinh học

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người sáng lập Phật giáo, một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới. Đức Phật là một nhà giáo dục, nhà triết học và nhà cải cách xã hội, đã giảng dạy đạo lý giải thoát khổ đau cho muôn loài.


Đức Phật sinh ra vào năm 624 trước Công nguyên tại vương quốc Kapilavastu, nằm ở phía Nam dãy núi Himalaya. Tên thật của Ngài là Siddhartha Gautama, là thái tử của bộ tộc Thích Ca. Cha Ngài là vua Suddhodana, mẹ là hoàng hậu Maya. Khi Ngài mới sinh ra, một tu sĩ Ấn Độ tên là Asita đã tiên tri rằng Ngài sẽ trở thành một vị vua vĩ đại hoặc một nhà giác ngộ lừng danh.
Vua cha mong muốn Ngài kế vị ngai vàng, nên đã cố gắng nuôi dưỡng Ngài trong sự giàu sang và xa hoa của cung vàng điện ngọc. Ngài được dạy các môn nghệ thuật, khoa học và võ nghệ. Ngài cũng được kết hôn với công chúa Yasodhara và có một con trai tên là Rahula.

Tuân lệnh phụ vương Sudhodana (Tịnh Phạn), sau nhiều cuộc thi tài toàn thắng, thái tử kết hôn cùng công chúa Yasodhara (Da-du-đà-la)

Tuy nhiên, Ngài không hài lòng với cuộc sống vương giả và luôn có lòng thương xót với những người khổ đau. Năm 29 tuổi, Ngài đã ra khỏi cung, đi dạo ngoài thành bốn lần và gặp bốn sự việc làm thay đổi nhãn quan: già yếu, ốm đau, chết và tu sĩ. Những sự việc này đã gợi cho Ngài suy ngẫm về sự thay đổi và khổ đau của cuộc đời.
Ngài quyết định từ bỏ cung điện và gia đình để đi tìm chân lý. Ngài cạo đầu, mặc áo cà sa và trở thành một tu sĩ. Thời gian đầu, Sa-môn Gotama đã học hỏi từ hai vị thầy nổi tiếng tại Ấn Độ cổ đại là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, nhưng không tìm được câu trả lời cho những câu hỏi trong lòng.
Ngài tiếp tục đi đến rừng Uruvela và gặp năm tu sĩ khổ hạnh: Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahanama và Assaji. Họ cùng nhau tu hành bằng cách kiêng ăn uống và tự tra tấn thân xác để thanh lọc tâm linh. Nhưng sau sáu năm khổ hạnh, Sa-môn Gotama nhận ra rằng phương pháp này không mang lại sự giác ngộ.

Ròng rã 6 năm tự ép xác theo phép tu khổ hạnh đến tiều tụy vẫn không giác ngộ, một hôm chợt nghe Phạm Thiên Indra gãy một khúc đàn, Sa-môn Cồ-đàm nghĩ ra con đường Trung Đạo

Ngài quyết định từ bỏ lỗi tu khổ hạnh và ăn uống bình thường để duy trì sức khỏe. Năm tu sĩ khổ hạnh thất vọng và bỏ đi, cho rằng Ngài đã sa ngã. Sa-môn Gotana tiếp tục đi đến gần sông Neranjara và ngồi thiền dưới một cây Bồ Đề. Và đến ngày Rằm tháng 4 năm 588 trước Công nguyên (theo lịch Việt Nam), Sa-môn Gotama đã chứng đạt quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác và trở thành Đức Phật, khi đó, Ngài vừa tròn 35 tuổi.

Lúc sao mai mọc, ngày trăng tròn tháng tư tháng Vesak, Sa-môn Cồ-đàm chứng đắc thánh quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni.

Đức Phật có nghĩa là “Người Giác Ngộ” hay “Người Trí Tuệ”. Đức Phật đã nhìn thấy nguyên nhân của khổ đau là do ái dục (tham lam, hờn giận và si mê) và con đường để giải thoát khổ đau là Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã quay lại gặp năm tu sĩ khổ hạnh ở vườn Lộc Uyển (Isipatana) gần thành phố Varanasi (Benares) và giảng cho họ bài pháp thoại đầu tiên có tên là “Chuyển Pháp Luân” (Dhammacakkappavattana Sutta). Trong bài pháp thoại này, Đức Phật đã trình bày về Tứ Diệu Đế (Bốn Sự Thật Cao Thượng) là Khổ (sự khổ đau của cuộc sống), Tập (sự tích tụ của ái dục), Diệt (sự diệt trừ của ái dục) và Đạo (con đường để diệt trừ ái dục). Năm tu sĩ khổ hạnh đã tin vào lời giảng của Đức Phật và trở thành những đệ tử đầu tiên của Ngài.

Đức Phật và 1.250 vị Tỳ-kheo

Từ đó, Đức Phật đã đi khắp Ấn Độ trong 45 năm để giảng dạy Giáo pháp cho mọi tầng lớp xã hội: vua chúa, quý tộc, binh lính, thương nhân, nông dân, thợ thủ công, phụ nữ, trẻ em… Đức Phật đã thành lập một cộng đồng tu sĩ gồm các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo Ni, hay còn được gọi chung là Tăng đoàn (Sangha). Sangha (Tăng đoàn) được coi là một trong ba bảo của Phật giáo (Tam Bảo), bên cạnh Phật (Buddha) và Pháp (Dharma).
Đức Phật đã giảng dạy rất nhiều pháp thoại cho các vị Tỳ-kheo và Phật tử. Những pháp thoại này được các vị Đại đệ tử của Phật trùng tụng, thu thập và tổng hợp lại thành các bộ kinh điển của Phật giáo. Các kinh điển này được chia thành ba tập lớn gọi là Tam Tạng hay Tam Kinh (Tipitaka). Tam Tạng gồm có Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka) và Luận Tạng (Abhidhamma Pitaka).

Ðức Phật nhập Niết-bàn (Nirvana, Nibbàna) trong rừng cây Sala, gần thành Kusinara (Câu-thi-na) sau 80 năm trụ thế và 45 năm hoằng pháp độ sinh

Đức Phật nhập Niết-bàn (viên tịch) vào năm 543 trước Công nguyên tại thành phố Kusinara thuộc vương quốc Malla khi Ngài 80 tuổi. Trước khi nhập Niết-bàn, Đức Phật đã để lại những lời dạy cuối cùng cho các vị Tăng Ni: “Ngày nào giới luật còn nghiêm minh, ngày ấy vẫn còn vững chãi, nguyên vẹn lòng kính trọng của giới cư sĩ và tất cả chúng sanh đến các vị. Ngày ấy Tăng Đoàn hưng thịnh. Ngày ấy các vị sẽ được gìn giữ khỏi vòng sa đọa, thấp hèn và tội lỗi, các vị sẽ được bảo vệ khỏi tất cả những gì bất tịnh, bất xứng với cuộc sống của một người đã thoát vòng tục lụy để sống đời phạm hạnh.”

Ngộ Tự Thọ

COMMENTS

WORDPRESS: 0